Có nhiều nguyên nhân gây đau ngực và phần lớn liên quan đến vấn đề tim hoặc phổi. Đau thắt ngực là triệu chứng cảnh báo điển hình bệnh mạch vành có 90% cơn đau ngực là do hẹp động mạch vành. Khi quá trình xơ vữa diễn ra kéo dài trong nhiều năm với sự tích tụ từ các mảng bám vào lòng mạch, làm thành mạch dày lên, cứng lại, mất tính đàn hồi và làm giảm lượng máu đến cơ tim. Lúc này, tim buộc phải làm việc trong môi trường thiếu oxy, từ đó gây đau thắt ngực.
Có 2 loại đau thắt ngực: cơn đau thắt ngực ổn định (Hội chứng bệnh mạch vành mạn tính) và cơn đau thắt ngực không ổn định (Hội chứng động mạch vành cấp tính).
Với nhiều bệnh nhân, cơn đau thắt ngực có biểu hiện như thắt lại, bó nghẹt hoặc bị đè nặng trước ngực và đôi khi cảm giác buốt giá, bỏng rát. Một số bệnh nhân có khó thở, mệt lả, đau đầu buồn nôn, vã mồ hôi. Cơn đau thường kéo dài khoảng vài phút (3-5 phút), có thể dài hơn nhưng thường không quá 20 phút (nếu đau kéo dài hơn và xuất hiện ngay cả khi nghỉ thì cần nghĩ đến cơn đau ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim).
Vị trí cơn đau thắt ngực thường gặp ở sau xương ức và là một vùng (chứ không phải một điểm), đau có thể lan lên cổ, vai, tay, hàm, thượng vị, sau lưng. Hay gặp hơn cả là hướng lên vai trái rồi lan xuống mặt trong tay trái, có khi xuống tận các ngón tay 4,5.
Cơn đau thắt ngực thường xuất hiện khi gắng sức, cảm xúc mạnh, gặp lạnh, sau bữa ăn nhiều hoặc hút thuốc lá và nhanh chóng giảm hoặc biến mất trong vài phút khi các yếu tố trên giảm.
Một số trường hợp cơn đau thắt ngực có thể xuất hiện về đêm, khi thay đổi tư thế hoặc khi kèm cơn nhịp tim nhanh.
Đau thắt ngực ổn định xuất hiện khi cơ tim đang thiếu máu, do đó, người bệnh cần ngay lập tức thực hiện như sau:
Việc phòng ngừa đau thắt ngực ổn định là vô cùng cần thiết và quan trọng. Một số biện pháp phòng ngừa được khuyến cáo bao gồm:
Nguồn tin: Báo Sức khỏe và đời sống
Ý kiến bạn đọc